Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2018

what am i suppose to do?

my life was a mess, it has always been a mess up until now and seemingly i'll keep doing the same stupid thing everyday unless somebody came along and show me the way, to get me out of this mess.

i'll tell you what.... there will be no one so bear with that and find your own way!

Thứ Hai, 5 tháng 3, 2018

Câu 3: Phân loại ngôn ngữ ( theo loại hình)

Phân loại các ngôn ngữ theo quan hệ loại hình

1. Cơ sở phân loại

Phân loại các ngôn ngữ theo quan hệ loại hình là cách phân loại ngôn ngữ theo cấu trúc và chức năng của chúng. Kết quả phân loại cho ta những loại hình ngôn ngữ. Loại hình ngôn ngữ không phải là một ngôn ngữ cụ thể nào, cũng không phải là một tổng hoặc một tập các ngôn ngữ. Loại hình ngôn ngữ là tổng thể của những đặc điểm hoặc thuộc tính về cấu trúc và chức năng vốn có của các ngôn ngữ thuộc nhóm đó, phân biệt nhóm đó với các nhóm ngôn ngữ khác. Trong mỗi ngôn ngữ có thể thấy ba nhóm thuộc tính: thuộc tính phổ quát, tức là thuộc tính chung, vốn có đối với tất cả các ngôn ngữ thế giới, thuộc tính riêng biệt là thuộc tính chỉ có ở ngôn ngữ đó, thuộc tính loại hình là thuộc tính đặc trưng cho từng nhóm ngôn ngữ nhất định. Thuộc tính loại hình được dùng làm tiêu chuẩn để quy định vị trí của một ngôn ngữ nao đó trong khi phân loại.

2. Phương pháp so sánh loại hình

Nếu phương pháp so sánh–lịch sử hướng vào sự phát triển lịch sử của các ngôn ngữ thân thuộc thì phương pháp so sánh–loại hình lại hướng vào hiện tại, vào hoạt động của kết cấu ngôn ngữ. Nhiệm vụ trung tâm của phương pháp so sánh này là tìm hiểu những cái giống nhau và khác nhau trong kết cấu của hai hoặc nhiều ngôn ngữ. Khi so sánh, người ta có thể xuất phát từ các mặt khác nhau của ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Nhưng sự so sánh các cấu trúc ngữ pháp có ý nghĩa to lớn nhất, bởi vì cấu trúc ngữ pháp và vốn từ cơ bản là cơ sở của các ngôn ngữ, tạo nên tính tiêng biệt của chúng. Ngữ pháp lại bao gồm từ pháp và cú pháp. Những đặc điểm về cú pháp không bao giờ biểu hiện một cách độc lập với những đặc điểm về từ pháp. Cho nên trong so sánh loại hình, cấu trúc từ pháp có tầm quan trọng đặc biệt. Bằng cách so sánh như vậy, người ta có thể rút ra đâu là những thuộc tính phổ quát (còn được gọi là những phổ niệm ngôn ngữ), đâu là những thuộc tính riêng biệt và đâu là những thuộc tính loại hình. Căn cứ vào những thuộc tính loại hình người ta chia các ngôn ngữ thế giới thành các nhóm loại hình khác nhau.

3. Các loại hình ngôn ngữ

3.1. Các ngôn ngữ đơn lập

Tiêu biểu cho loại hình này là tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Thái, các tiếng Mon-Khmer, v.v... Đặc điểm chính của loại hình này là:
Từ không biến đổi hình thái. Hình thái của từ tự nó không chỉ ra mối quan hệ giữa các từ ở trong câu, không chỉ ra chức năng cú pháp của các từ. Qua hình thái, tất cả các từ dường như không có quan hệ với nhau, chúng thường đứng ở trong câu tương tự như đứng biệt lập một mình. Chính xuất phát từ đặc điểm này mà người ta gọi loại hình này là "đơn lập".
- Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng hư từ và trật tự từ. Ví dụ:
Dùng hư từ:cuốn vởnhững cuốn vở
 đọcsẽ đọc
  đã đọc
  đang đọc
Dùng trật tự từ:cửa trướctrước cửa
 cá nướcnước cá
nhà nướcnước nhà
Tính phân tiết. Trong các ngôn ngữ này, các từ đơn tiết làm thành hạt nhân cơ bản của từ vựng. Phần lớn những đơn vị được gọi là từ ghép, từ phái sinh được cấu tạo từ các từ đơn tiết này. Vì thế, ranh giới các âm tiết thường trùng với ranh giới các hình vị, hình vị không phân biệt với từ và do đó ranh giới giữa đơn vị gọi là từ ghép và cụm từ cũng khó phân biệt.
- Những từ có ý nghĩa đối tượng, tính chất, hành động... không phân biệt với nhau về mặt cấu trúc. Tất cả đều được diễn đạt bằng các từ không biến đổi. Ví dụ: cưa "dụng cụ để xẻ gỗ" và cưa "hành động xẻ gỗ". Chính vì vậy, một số nhà ngôn ngữ học cho rằng trong các ngôn ngữ đơn lập không có cái gọi là "các từ loại".

3.2. Các ngôn ngữ không đơn lập

3.2.1. Các ngôn ngữ chắp dính (niêm kết)

Thuộc loại này có tiếng Thổ Nhĩ Kì, các tiếng Ugo-Phần Lan, tiếng Bantu, v.v... Đặc điểm của chúng là:
Sử dụng rộng rãi các phụ tố để cấu tạo từ và biểu thị những mối quan hệ khác nhau. Nhưng, khác với các ngôn ngữ hoà kết, hình vị trong các ngôn ngữ chắp dính có tính độc lập lớn và mối liên hệ giữa các hình vị không chặt chẽ. Chính tố có thể hoạt động độc lập. Thí dụ, trong tiếng Thổ Nhĩ Kì:
adam "người đàn ông" – adamlar "những người đàn ông"
kadin "người đàn bà" – kadinlar "những người đàn bà"
Chính do mối liên hệ không chặt chẽ của các hình vị mà người ta gọi những ngôn ngữ này là ngôn ngữ "niêm kết" hay "chắp dính".
- Mỗi phụ tố trong các ngôn ngữ chắp dính chỉ biểu thị một ý nghĩa ngữ pháp, ngược lại, mỗi ý nghĩa ngữ pháp chỉ được biểu thị bằng một phụ tố [quan hệ 1–1]. Thí dụ, trong tiếng Tacta:
kul "bàn tay" (cách I, số ít)
kul-lar "những bàn tay" (-lar chỉ số nhiều)
kul-da (-da chỉ các vị trí cách)
kul-lar-da (-lar chỉ số nhiều, -da chỉ vị trí cách)
Do đó, từ có độ dài rất lớn. Chẳng hạn, một hình thái động từ của tiếng Suahêli: wa-ta-si-pô-ku-ja (chính tố là -ja "đến", wa- chỉ ngôi thứ 3 số nhiều, -ta- chỉ thời tương lai, -pô- chỉ điều kiện, -ku- là dấu hiệu của động từ.

3.2.2. Các ngôn ngữ hoà kết (chuyển dạng)

Loại hình này gồm các ngôn ngữ như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Hi Lạp, tiếng A Rập, v.v... Đặc điểm của loại hình này là:
- Có hiện tượng biến đối của nguyên âm và phụ âm ở trong hình vị, sự biến đổi này mang ý nghĩa ngữ pháp và được gọi là "biến tố bên trong". Thí dụ:
Tiếng Anh: foot "bàn chân" -- feet "những bàn chân"
Tiếng A Rập: balad "làng" -- biläd "những làng"
Tiếng Nga: избегатв "thoát khỏi" -- избежатв "thoát khỏi" (thể hoàn thành).
Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp được dung hợp ở trong từ nhưng không thể tách bạch phần nào biểu thị ý nghĩa từ vựng, phần nào biểu thị ý nghĩa ngữ pháp. Chính xuất phát từ đặc điểm này mà người ta gọi là các ngôn ngữ "hoà kết".
- Ngôn ngữ hoà kết cũng có cả các phụ tố. Nhưng mỗi phụ tố có thể đồng thời mang nhiều ý nghĩa và ngược lại, cùng một ý nghĩa có thể diễn đạt bằng các phụ tố khác nhau [quan hệ 1-n].
Thí dụ: Trong tiếng Nga, phụ tố -а trong рука biểu thị cả nguyên cách lẫn số ít, phụ tố -е và -и dùng để biểu thị số ít, giới cách trong в столе "trong cái bàn" và в степи "trong thảo nguyên". Vì thế, các ngôn ngữ hoà kết có nhiều cách chia danh từ và động từ. Tiếng Nga hiện đại có 3 cách chia danh từ, 3 cách chia động từ. Tiếng Latin có 5 cách chia danh từ.
Sự liên hệ chặt chẽ giữa các hình vị ở trong từ. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ ngay cả chính tố cũng không thể đứng một mình. Ví dụ: chính tố рук- trong tiếng Nga luôn luôn phải có phụ tố đi kèm theo: рука, руке, рукам,...
Các ngôn ngữ hoà kết (chuyển dạng) có thể được chia ra các kiểu nhỏ là chuyển dạng-phân tích và chuyển dạng-tổng hợp. Các ngôn ngữ tổng hợp có đặc điểm là, những mối quan hệ giữa các từ biểu hiện bằng các dạng thức của từ. Chính vì vậy, mà trong các ngôn ngữ tổng hợp có cách khác nhau để diễn đạt mối quan hệ giữa các từ trong câu. Ngược lại, ở các ngôn ngữ phân tích, mối quan hệ giữa các từ trong câu, đúng hơn là trong cụm từ, được thể hiện không phải bằng các dạng thức của các từ mà bằng các từ phụ trợ và bằng vị trí của các từ. Hãy so sánh, tiếng Latin liber Petr-i (ngôn ngữ tổng hợp) và tiếng Pháp le livre de Pierre (ngôn ngữ phân tích). Các ngôn ngữ chuyển dạng tổng hợp gồm các ngôn ngữ viết Ấn-Âu cổ (Sanskrit, Hi Lạp, Latin, Slavơ cổ v.v...) và phần lớn các ngôn ngữ Slavơ hiện đại v.v... Các ngôn ngữ chuyển dạng phân tích gồm các tiếng Ấn-Âu hiện đại như các tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Anh và tiếng Bungari.
See also: Indo-European Languages
Thực ra, việc chia ra các ngôn ngữ tổng hợp và các ngôn ngữ phân tích là dựa vào đặc điểm về cú pháp. Nhưng những đặc điểm này thể hiện rất rõ trong cấu trúc hình thái học của từ. Có thể nghĩ rằng việc chia ra các ngôn ngữ phân tích và các ngôn ngữ tổng hợp cần phải được tiến hành ở cả các ngôn ngữ chắp dính. Thực tế vấn đề này rất phức tạp. Đặc trưng của các ngôn ngữ tổng hợp là cách, cho nên chúng ta có thể gọi các ngôn ngữ chắp dính có nhiều cách (chẳng hạn, tiếng Phần Lan có 15 cách, các tiếng Komi-Syrie có 16 cách, các tiếng Komi-Perơnia có 17 cách v.v...) là tổng hợp và các ngôn ngữ chắp dính không có cách hoặc ít cách là (chẳng hạn, tiếng Mêlanidi v.v...) là phân tích. Nhưng ranh giới của từ trong các ngôn ngữ chắp dính không rõ ràng như trong các ngôn ngữ chuyển dạng. (Mistele gọi các ngôn ngữ chắp dính là các ngôn ngữ có từ giả là vì vậy). Thường là không thể xác định được những mối quan hệ giữa các từ được biểu hiện bằng các hình thức của cách hay là bằng các trợ từ. Do đó, việc chia ngôn ngữ chắp dính thành các ngôn ngữ chắp dính tổng hợp và chắp dính phân tích, trong một số trường hợp là không thể thực hiện được.
Việc chia các ngôn ngữ đơn lập thành các ngôn ngữ tổng hợp và phân tích là hoàn toàn không thể được. Bởi vì ở các ngôn ngữ đơn lập, mối quan hệ giữa các từ không được diễn đạt bằng các hình thái của từ mà chỉ bằng hư từ và vị trí của từ. Chính vì thế, tất cả các ngôn ngữ đơn lập đều là các ngôn ngữ phân tích.

3.2.3. Các ngôn ngữ đa tổng hợp (hỗn nhập)

Đặc điểm của các ngôn ngữ hỗn nhập là một từ có thể tương ứng với một câu trong các ngôn ngữ khác. Nghĩa là đối tượng hành động, trạng thái hành động không được thể hiện bằng các thành phần câu đặc biệt (tân ngữ, trạng ngữ, định ngữ v.v...) như ở các ngôn ngữ khác, mà được thể hiện bằng các phụ tố khác nhau trong hình thái động từ. Đôi khi chủ ngữ cũng nằm trong vị ngữ động từ. Thí dụ: trong tiếng Tschinuk ở Bắc Mĩ, tương ứng với câu "Tôi đã đến để cho cô cái này" là từ i-n-i-a-l-u-d-am, trong đó, gốc của động từ "cho" chỉ đại diện bằng một phụ âm -d-, tiền tố -i- (ở đầu) biểu hiện thời quá khứ, -n- biểu hiện ngôi thứ nhất, số ít; -i- thứ hai biểu hiện tân ngữ giới từ (cái này), -a- biểu hiện tân ngữ giới từ (cô), -l- cho biết tân ngữ giới từ trên (cô) không phải là trực tiếp mà là gián tiếp, -u- chỉ ra rằng hành động xảy ra từ người nói (tức là người nói cho ai cái gì đó chứ không phải là nhận cái gì đó của ai), phụ tố -am cuối cùng biểu hiện khái niệm về sự chuyển động có mục đích, tức là chỉ ra rằng người nói không cho ai cái gì đó một cách đơn giản mà đã đến với mục đích nhất định.
Trong thí dụ trên, hình thái động từ chỉ chứa đựng tân ngữ là đại từ. Nhưng, ở một số ngôn ngữ, hình thái động từ bao gồm cả danh từ. Trong trường hợp này, danh từ bị rút gọn. Thí dụ: trong tiếng Louravetlan, từ t-y-k, aa-nmy-rkyn có nghĩa là "Tôi giết con thú chạy". Ở đây, nmy là gốc của động từ "giết"; rkyn là phụ tố chỉ thời hiện tại: t- là tiền tố chỉ ngôi thứ nhất số ít; -kaa là hình thức rút gọn của danh từ k, oran (g) y "con thú chạy"; và -y- là nguyên âm được phát triển về mặt ngữ âm, liên hệ các phần ý nghĩa khác nhau của từ. Chính do đặc điểm các bộ phận tương ứng với các thành phần câu khác nhau được chứa đựng trong một từ mà người ta gọi là các ngôn ngữ trên là "hỗn nhập" hay "đa tổng hợp".
Cần nhớ rằng, trong các ngôn ngữ hỗn nhập, bên cạnh các hình thái hỗn nhập còn có cả các hình thái độc lập. Cùng một mối quan hệ có thể vừa được diễn đạt bằng một hình thái động từ trọn vẹn (hỗn nhập) vừa được diễn đạt bằng những thành phần câu độc lập. Chính vì vậy những ý kiến cho rằng trong các ngôn ngữ hỗn nhập không có các từ tách rời mà chỉ có từ-câu là không đúng.
Một số nhà ngôn ngữ học cho rằng, việc tách ra các ngôn ngữ hỗn nhập là dựa vào những đặc điểm về cú pháp, cho nên phải đặt nó dưới sự phân chia theo nguyên tắc cú pháp cùng với các ngôn ngữ phân tích và tổng hợp. Tuy nhiên, về mặt hình thái học, các ngôn ngữ hỗn nhập cũng thể hiện những cấu trúc hình thái riêng. Ở các ngôn ngữ này, các hình vị liên kết với nhau theo nguyên tắc dính. Nhưng trong các ngôn ngữ hỗn nhập có cả hiện tượng chuyển dạng nội bộ nữa. Do đó, xét về mặt cấu trúc của các hình vị và mối liên hệ của chúng thì các ngôn ngữ hỗn nhập vừa có những đặc đỉem của các ngôn ngữ chắp dính vừa có đặc điểm của các ngôn ngữ chuyển dạng.
Các ngôn ngữ Ấn ở Nam Mĩ và đông nam Xibêri v.v... là các ngôn ngữ hỗn nhập.
*
Trên đây là những loại hình ngôn ngữ chính mà người ta thường nhắc đến. Tất nhiên không phải tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều nằm vào một trong những loại hình này. Các loại hình trên đây chỉ có thể được xem là các loại hình lí tưởng. Chúng ta tính các ngôn ngữ vào loại hình này hay loại hình khác là căn cứ vào những đặc điểm tiêu biểu của chúng. Thực tế trong những ngôn ngữ kiểu này vẫn có thể có những đặc điểm của các ngôn ngữ kiểu khác. Thí dụ: Tiếng Phần Lan là một ngôn ngữ chắp dính, nhưng cũng có hiện tượng thay đổi âm vị ở gốc từ mặc dù hiện tượng này trong tiếng Phần Lan không đóng vai trò quan trọng như ở các ngôn ngữ chuyển dạng. Hay so sánh: kukka "hoa" và kukan (cách 2, số ít). Ở đây, có sự thay đổi KK – K trong gốc từ.
Các ngôn ngữ tiêu biểu cho loại hình chuyển dạng như tiếng Nga cũng có những đặc điểm gần gụi với các ngôn ngữ chắp dính. Trong tiếng Nga, có hiện tượng các tiền tố có ý nghĩa khác nhau, cùng tồn tại trong một từ. Tương tự như trong các ngôn ngữ chắp dính, trong tiếng Nga, các tiền tố liên kết với thân động từ nhiều hơn và mối liên hệ này tự do hơn bình thường.
Một số đặc điểm của các ngôn ngữ đa tổng hợp (hỗn nhập) chúng ta cùng tìm thấy ở các ngôn ngữ khác không phải là đa tổng hợp. Thí dụ, trong tiếng Pháp (ngôn ngữ phân tích chuyển dạng), các yếu tố đại từ biểu hiện đối tượng trực tiếp hay gián tiếp được chen vào hình thái động từ. Trong cấu trúc je-te-le-donne "Tôi cho anh cái này" đại từ je- thực tế chỉ là một tiền tố của động từ. Tương tự, các hình thái thêm vào giữa động từ và đại từ je cũng nằm trong hình thái động từ.
Vấn đề cuối cùng cần phải trình bày là mối quan hệ giữa cách phân loại theo loại hình và cách phân loại theo nguồn gốc như thế nào. Chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng trong mỗi loại hình ngôn ngữ có thể bao gồm các họ ngôn ngữ khác nhau. Chẳng hạn, cùng thuộc loại hình chắp dính có những ngôn ngữ thuộc các họ ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau: Ugo-Phần Lan, Thổ Nhĩ Kì, Bantu v.v... Nhưng, vấn đề trong một ngữ tộc có thể bao gồm các kiểu ngôn ngữ khác nhau không thì với sự hiểu biết hiện nay chúng ta chưa giải quyết được.

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Câu 2: Sự phát triển của ngôn ngữ

Sự phát triển của ngôn ngữ

Thứ Ba 5, Tháng Sáu 2007
Khi nói về nguồn gốc của ngôn ngữ, chúng ta đã phân tích và thấy rằng ngôn ngữ xuất hiện cùng với quá trình hình thành ý thức, gắn liền với lao động, với sự xuất hiện của con người và xã hội loài người. Vậy, xem xét quá trình diễn tiến của ngôn ngữ trong sự diễn tiến của xã hội loài người sẽ là điều hợp lí.
Về mặt dân tộc học, người ta đã phân loại các đơn vị tổ chức xã hội loài người thành các bậc: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và cuối cùng là dân tộc. Bên cạnh đó, học thuyết về các hình thái kinh tế xã hội lại phân chia lịch sử xã hội theo một cách khác và được các hình thái kinh tế xã hội ứng xử với các giai đoạn phát triển như: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa.
Trên thực tế, khó lòng có thể vạch ra từng bậc trong sự diễn tiến của ngôn ngữ một cách “phân đoạn” như vậy. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất định, người ta vẫn có thể dựa vào những ranh giới phân đoạn đó nhiều hoặc ít, tuỳ theo, vì chẳng còn có cách nào hơn.
2.1. Chế độ công xã nguyên thuỷ ứng với loại cộng đồng thị tộc và bộ lạc (còn gọi chung là các nhóm dân tộc học) trong đó bộ lạc là đơn vị cơ sở.
Mỗi bộ lạc như thế cư trú trên một lãnh thổ, mọi người trong bộ lạc có quan hệ kinh tế
với nhau, mang mang những đặc điểm đời sống-văn hoá chung và nói cùng một thứ tiếng.
Về mặt ngôn ngữ, thời kì này có hai xu hướng gần như trái ngược nhau, nhưng nhiều khi lại đan xen vào nhau: xu hướng chia tách, phân tách và xu hướng liên minh, hợp nhất.
2.1. 1. Xu hướng chia tách thường xảy ra khi một bộ lạc tăng trưởng dân số không ngừng và đến một lúc nào đó, do nhiều điều kiện khác nhau (nhưng nhu cầu sinh sống là chủ yếu) buộc người ta tự nhiên phải tách ra thành những bộ phận, những nhóm, cư trú phân tán trên nhiều địa bàn khác nhau.
Do điều kiện sống xa nhau, thậm chí biệt lập, rất ít tiếp xúc hoặc không có tiếp xúc nữa, các bộ phận cư dân đó về sau đã hình thành nên (một cách tự nhiên) những bộ lạc độc lập.
Trong quá trình đó, những khác biệt về mặt ngôn ngữ đã nảy sinh rồi được củng cố qua nhiều thế hệ và trở thành ngôn ngữ khác nhau có cùng nguồn gốc, hoặc trở thành những phương ngữ, thổ ngữ khác nhau của một ngôn ngữ chung. Các nhà dân tộc học, sử học, ngôn ngữ học cùng với những ngành khoa học hữu quan, khi nghiên cứu sự thân thuộc về mặt cội nguồn giữa các tộc người, giữa các ngôn ngữ hiện đang tồn tại hoặc giữa các phương ngữ của một ngôn ngữ, đã thấy rất rõ điều đó. Chẳng hạn: các nhóm phương ngữ Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng của tiếng Chứt; các nhóm phương ngữ Thổ, Poọng, Đan Lai, Li Hà, Cuối Chăm, Cuồi Niêu của tiếng Thổ ở khu vực Đông Nam Trường Sơn (Việt Nam); Các phương ngữ của tiếng Papua ở Châu Phi, các phương ngữ của tiếng Litva ở Liên Xô… hẳn đã là kết quả của quá trình chia tách và khuếch tán như vậy.
Có thể nói, ngôn ngữ của các bộ lạc, tự nó đã là những mầm mống để hình thành các phương ngữ, thổ ngữ trong giai đoạn xã hội phát triển cao hơn sau này.
2.1.2. Xu hướng hợp nhất có lẽ hay xảy ra vào giai đoạn chót của chế độ công xã nguyên thuỷ đang chuyển dần sang giai đoạn xã hội có giai cấp.
Lúc này, có những liên minh bộ lạc được hình thành (hoặc là bằng cách một bộ lạc này chinh phục các bộ lạc khác, hoặc là một số bộ lạc tự nguyện liên minh với nhau vì một nguyên nhân nào đó).
Liên minh bộ lạc là điều kiện hết sức thuận lợi để các ngôn ngữ (dù không gần gũi với nhau về cội nguồn, hoặc hoàn toàn không có quan hệ thân thuộc đi nữa) tiếp xúc chặt chẽ với nhau và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Thường có hai lối tác động:
Thứ nhất, một ngôn ngữ bộ lạc chiến thắng các ngôn ngữ khác và trở thành ngôn ngữ chung trong cộng đồng toàn liên minh. Tuy vậy, nó vẫn chịu ảnh hưởng của các ngôn ngữ không chiến thắng khác và thay đổi ít nhiều bộ dạng của mình đi; nhất là ở mặt ngữ âm và từ vựng. Tiếng Latin của người La Mã trong các vùng bị người La Mã chinh phục là như vậy.
Thứ hai, tiếp xúc ngôn ngữ dẫn đến pha trộn ngôn ngữ và thậm chí có thể làm nảy sinh một ngôn ngữ mới. Thế nhưng, đây không phải là sự pha trộn cơ giới, đảo đều; cũng không phải là sự tạo thành một ngôn ngữ hoàn toàn mới, khác hẳn các ngôn ngữ tham gia tiếp xúc, pha trộn; bởi vì ngôn ngữ mới này vẫn giữ cơ cấu hình thái của một trong những ngôn ngữ thuộc thành phần pha trộn đó làm cơ sở nền tảng cho mình. Chính nhờ cái cơ sở (gọi là cơ tầng) đó mà người ta vẫn xác định được ngôn ngữ mới thân thuộc với ngôn ngữ nào hơn và thuộc vào nhóm nào trong phổ hệ của họ ngôn ngữ.
Lối tiếp xúc, ảnh hưởng như thế, ngay gần đây, người ta vẫn còn có thể kiểm chứng được trong không hiếm ngôn ngữ hiện đang tồn tại. Ví dụ:
2.2. 1. Tiếng Việt trong quá trình tiếp xúc lâu đời với tiếng Hán, đã vay mượn vào vốn từ của mình một khối lượng rất lớn các từ và yếu tố tạo từ cùng với một số ảnh hưởng khác về mặt ngữ pháp; nhưng không vì thế mà nó thuộc cùng một nhóm gần gũi về cội nguồn với tiếng Hán.
Ở châu Âu, quan hệ giữa tiếng Anh với tiếng Pháp; tiếng Rumani với các ngôn ngữ Slave và tiếng Hi Lạp, tiếng Hung, người ta cũng thấy những tình hình tương tự: tiếng Anh vẫn thuộc số các ngôn ngữ Giecman, còn tiếng Pháp, tiếng Rumani vẫn thuộc về các ngôn ngữ Roman.
2.2.2. Theo A.G. Haudricourt, người Sán Chấy ở Việt Nam vốn là người Dao gốc Quý Châu (Trung Quốc), di cư đến Quảng Đông rồi di cư sang Việt Nam sống chung với người Tày, Nùng. Tại đây, ngôn ngữ của họ, tiếng Sán Chấy, là một ngôn ngữ pha trộn gồm cơ tầng Dao với tiếng Tày Nùng.
Như vậy, điểm nổi rõ về mặt ngôn ngữ trong thời kì công xã nguyên thuỷ, thời kì của các thị tộc, bộ lạc là luôn luôn diễn ra quá trình chia tách và liên minh, tiếp xúc. Một mặt, sự chia tách làm gia tăng số lượng các ngôn ngữ khác nhau hoặc các phương ngữ, thổ ngữ khác nhau trong một ngôn ngữ; mặt khác, sự tiếp xúc lại dẫn đến tình trạng gần nhau, và tới một mức nào đó sẽ dẫn đến pha trộn ngôn ngữ.
2.2. Thay thế chế độ công xã nguyên thuỷ là chế độ xã hội có giai cấp, gắn liền với sự thiết lập nhà nước (trước hết là những nhà nước cổ đại) theo kiểu nào đó của phương Đông hoặc phương Tây.
Tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở từng nơi mà các nhà nước đó đã được xây dựng bằng những cách khác nhau, bởi những nguyên nhân ít nhiều khác nhau. Các nhà nước cổ đại ở Hi Lạp, La Mã, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Hoa và vùng Cận Đông là sản phẩm của những bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc chiến thắng để thống trị các tộc người khác trong cộng đồng. Một số nơi khác (rất có thể như ở nước Văn Lang ở Việt Nam thời xa xưa chẳng hạn) lại xây dựng nhà nước trên cơ sở của một liên minh tự nguyện, thiết lập chính quyền trung ương thống nhất, khả dĩ tập trung sức mạnh toàn cộng đồng để đối phó thiên tai hoặc các cuộc xâm lăng, thôn tính của ngoại xâm.
Nhà nước ra đời đòi hỏi trong cộng đồng phải có một ngôn ngữ thống nhất làm ngôn ngữ nhà nước. Ngôn ngữ đó có thể là một ngôn ngữ bản địa của người chiến thắng như tiếng Latin từ sau năm 49 trước công nguyên ở đế quốc La Mã, tiếng Xôngai trong lãnh thổ của nhà nước Xôngai (ở Châu Phi) trước đây; cũng có thể là ngôn ngữ của bộ lạc làm hạt nhân, trung tâm cho nhà nước như tiếng Việt trong lãnh thổ nước Văn Lang thời xưa. Mặt khác, ở một số nơi, cùng với sự hình thành nhà nước là quá trình xuất hiện, xây dựng chữ viết (hoặc là tự sáng tạo, hoặc là vay mượn, cải biến, hoặc là tiếp thu hẳn một hệ thống của ngoại tộc).
Người nắm được và sử dụng chữ viết lúc đó chủ yếu là các trí thức trong tầng lớp thống trị, các tăng lữ thuộc các tôn giáo hoặc thương nhân (như ở Cận Đông và vùng Địa Trung Hải). Vì vậy, trong giai đoạn này ngôn ngữ nhà nước không phải ở nơi nào cũng đồng thời là ngôn ngữ của toàn dân. Thậm chí, khi nhà nước đã đạt tới trình độ quản lí tổ chức và tập trung cao (như trong chế độ phong kiến về sau chẳng hạn) thì cái gọi là ngôn ngữ nhà nước, ngôn ngữ có tính chính thống thường cũng có nghĩa là ngôn ngữ viết, phân biệt với ngôn ngữ nhân dân (là ngôn ngữ dùng trong giao tiếp rộng rãi hàng ngày) và có khi nó xa cách với ngôn ngữ nhân dân.
Điều này còn diễn ra cho tận đến lúc ngôn ngữ dân tộc dần dần chiếm ưu thế trong mọi phạm vi giao tiếp của nhà nước.
Dẫu sao thì sự ra đời của nhà nước cũng đã có ảnh hưởng đến ngôn ngữ. Nó là nhân tố vừa đòi hỏi, vừa thúc đẩy việc tìm kiếm, xây dựng một ngôn ngữ chính thức, thống nhất về phương diện quốc gia, dù có đồng thời là ngôn ngữ toàn dân hay không.
2.3. Nét nổi bật trong thời kì hình thành dân tộc là hình thành một ngôn ngữ dân tộc thống nhất.
Dân tộc vốn là một phạm trù lịch sử, xuất hiện vào một giai đoạn nhất định, với những điều kiện và hoàn cảnh nhất định.
Một trong những điều kiện quan trọng bắt buộc, để đảm bảo một cộng đồng người hình thành một dân tộc (ví dụ như điều kiện về lãnh thổ, về kinh tế, về cấu tạo tâm lí và văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần…) là cộng đồng đó phải có một ngôn ngữ chung.
Tuy nhiên, ngôn ngữ chính thức, thống nhất của nhà nước với ngôn ngữ thống nhất của dân tộc không phải bao giờ cũng trùng nhau. Tình trạng này hiện nay chúng ta vẫn còn quan sát được ở nhiều nước châu Phi: tại đó, có nhiều ngôn ngữ của các dân tộc bản địa, nhưng ngôn ngữ nhà nước lại là một thứ tiếng châu Âu nào đó, được phổ biến từ thời thực dân. Ví dụ tiếng Anh ở Nigiêria, tiếng Pháp ở Mali và Ghilê…
Dân tộc được hình thành, làm tăng cường thêm sự thống nhất về nhiều mặt, trong đó có thống nhất ngôn ngữ. Những dị biệt của ngôn ngữ mang tính xã hội hoặc lãnh thổ giữa các bộ lạc, bộ tộc bị triệt thoái dần; còn những nét chung, thống nhất càng ngày càng được phát hiện, xây dựng và củng cố để trở thành tài sản chung của tất cả mọi người.
Thông thường, ngôn ngữ dân tộc có thể được xây dựng trên cơ sở của một ngôn ngữ có sẵn (thường là phương ngữ ở vùng trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá trong quan hệ nhà nước) hoặc xây dựng trên cơ sở của các tác động qua lại dẫn đến sự tổng hoà, có chọn lọc từ các phương ngữ khác nhau. Ví dụ, có thể coi tiếng Việt với phương ngữ Bắc (mà trung tâm là hai vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã) thuộc trường hợp thứ nhất; còn tiếng Nga với sự tổng hoà các phương ngữ Bắc Nga và Nam Nga cùng một phần tiếng Slave cổ, thuộc về trường hợp thứ hai.
Tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc, tuy vậy, vẫn buộc phải chấp nhận tình trạng còn tồn tại những phương ngữ địa lí và phương ngữ xã hội. Đó là sự thực hiển nhiên mà chúng ta hoàn toàn có thể quan sát được thống nhất trong cái đa dạng, và đa dạng trên một căn bản thống nhất. Tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Khmer, tiếng Lào, tiếng Thái Lan cũng như tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh… đều như thế.
Sự hình thành ngôn ngữ dân tộc thống nhất cũng sẽ thường dẫn đến việc xây dựng ngôn ngữ văn học (hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là ngôn ngữ trong văn học nghệ thuật). Đó là thứ ngôn ngữ có quy chế, được trau dồi dù có chính thức hay không.
Thật ra, quá trình hình thành ngôn ngữ dân tộc và xây dựng ngôn ngữ văn học (của dân tộc) không phải bao giờ cũng đi đôi với nhau hoặc tiếp liền nhau. Trong khi ở Hi Lạp cổ đại, ngôn ngữ văn học được xây dựng từ rất sớm (thế kỉ III trước công nguyên) thì trước đây và ngay cả thời gian không xa so với hiện nay, ở nhiều nơi người ta dùng hẳn một ngôn ngữ khác (cùng với chữ viết của nó) để làm ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ nhà nước. Ngôn ngữ văn học như thế cũng đồng thời chỉ có nghĩa là ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ đó thường là của những dân tộc khác có nền văn hoá, văn học hết sức rực rỡ. Chẳng hạn một số nước châu Âu dùng tiếng Latin; vùng bắc Phi và tiểu Á, một số nước dùng tiếng Ả Rập; còn vùng Lào, Thái Lan, Campuchia dùng tiếng Bali, Sanskrit; Việt Nam dùng tiếng Hán…
Khi ngôn ngữ dân tộc dần dần khẳng định được vai trò vị trí của mình, nó cũng được nhân dân tích cực trau dồi, làm cho có quy chế, có chuẩn mực cả hình thức nói lẫn hình thức viết. Do vậy, nó được dùng trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng… Từ đây, ngôn ngữ dân tộc của nhân dân được lựa chọn, được quy chế hoá để trở thành văn hóa ngôn ngữ dân tộc mình.
2. 4. Xem xét diễn tiến của ngôn ngữ loài người nói chung cũng như của ngôn ngữ nói riêng, hầu như người ta hiếm gặp những trường hợp biến đổi và phát triển đơn tuyến.
Những điều trình bày trên đây, quả thực đã có phần đơn giản hoá vấn đề đi rất nhiều để cho phù hợp với mục đích của chúng ta: chỉ quan sát những đường hướng khái quát và giản lược nhất mà thôi.
Dù sao thì ngôn ngữ cũng không bao giờ không biến đổi. Chỉ có điều, khi khảo sát diễn tiến của bất kì ngôn ngữ nào cũng vậy, cần lưu ý rằng:
2.4.1. Nó không phát triển, biến đổi theo phương thức đột biến và cách mạng, mặc dù luôn luôn biến đổi không ngừng.
2.4.2. Trong các quá trình biến đổi, do những tác động ảnh hưởng nhiều chiều, nhiều kiểu của nhiều nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ, thì ba mặt: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của nó vẫn không biến đổi đồng đều như nhau.
Để thực hiện được chức năng làm công cụ giao tiếp và phản ánh, bảo đảm cho mọi người sử dụng có thể hiểu được nhau, mặt từ vựng của ngôn ngữ bao giờ cũng thay đổi nhanh nhạy nhất, mặt ngữ âm biến đổi chậm hơn rất nhiều so với từ vựng, còn ngữ pháp là bộ phận biến đổi chậm nhất và ít nhiều nó mang tính cách của một nhân tố, một thành phần bảo thủ.
Đối với việc nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử của ngôn ngữ nói chung hay từng mặt, từng bộ phận riêng của nó, nhận thức đó là một trong những điều rất có ý nghĩa và cần thiết.
(theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 38–44)

Câu 1: Nguồn gốc của ngôn ngữ

I, cần trình bày được các giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ
 1,Thuyết tượng thanh
 2,Thuyết cảm thán
 3,Thuyết cảm thán trong lao động
 4,Thuyết khế ước xã hội
 5,Thuyết ngôn ngữ cử chỉ

II, Nguồn gốc ngôn ngữ
-Ăng ghen đã viết: "Ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cũng nảy sinh với lao động"

1,Ngôn ngữ phát triển cùng với tư duy trừu tượng
 Bước quyết định trong quá trình vượn biến thành người là sự kiện đôi tay được giải phóng.
đôi tay giải phóng => con người có thể chế tạo được công cụ lao động
nhờ công cụ lao động => mà năng lực tư duy trừu tượng phát triển
 Tóm lại, tư duy trừu tượng của con người đã lón lên cùng lao động, nhưng tư duy trừu tượng không thể tồn tại trần trụi, thoát khỏi dữ liệu, cho nên tư duy hình thành thì ngôn ngữ cũng ra đòi

2,Ngôn ngữ sinh ra do nhu cầu giao tiếp
s Sự phát triển của lao động đã dẫn đến kết quả tất yếu là thắt chặt thêm  mối quan hệ giữa các thành viên của xã hội, bằng cách tạo ra rất nhiều trường hợp để con người giúp đỡ lẫn nhau,hợp tác lẫn nhau và làm cho mỗi cá nhân ngày càng ý thức rõ rệt hơn đối với lợi ích của sự hợp tác ấy,
 Tóm lại, do nhu cầu giao tiếp nên cần ngôn ngữ

=>Nói ngắn gọn hơn, lao động quyết định sự ra đời của ngôn ngữ. Một mặt, lao động làm cho con người phải có ngôn ngữ để nói với nhau. mặt khác lao động làm cho người ta cần phải có ngôn ngữ để tiến hành tư duy, hình thành tư tưởng.

3, Ngôn ngữ  âm thanh của loài người
Muốn có ngôn ngữ thì phải có tư duy trừu tượng và khả năng phát âm rõ ràng.
 Trong quá trình lao động, cơ thể con người ngày càng hoàn thiện hơn, trong đó có cơ quan phát âm
dẫn đến ngôn ngữ âm thanh phân biệt loài người với động vật.

2. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt

2. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt

Cùng là hệ thống tín hiệu, ngôn ngữ khác với các hệ thống tín hiệu khác ở những đặc điểm sau:
  1. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu phức tạp bao gồm các yếu tố đồng loại và không đồng loại, với số lượng không xác định. Những hệ thống tín hiệu nhân tạo như hệ thống đèn giao thông, biển chỉ đường, quân hiệu, quân hàm v.v… chỉ bao gồm một số tương đối hạn chế các yếu tố đồng loại. Chẳng hạn, hệ thống đèn giao thông chỉ gồm ba yếu tố là đèn đỏ, đèn xanh và đèn vàng và tính chất của chúng là hoàn toàn như nhau. Ngôn ngữ có nhiều loại đơn vị khác nhau: âm vị khác với hình vị, hình vị khác với từ, từ khác với câu. Số lượng từ và câu trong một ngôn ngữ là vô số. Không ai có thể biết tất cả các từ của ngay tiếng mẹ đẻ của mình, bởi vì nó quá nhiều, lại thường xuyên được phát triển, bổ sung thêm.
  2. Vì ngôn ngữ bao gồm các yếu tố không đồng loại cho nên nó tạo ra nhiều hệ thống và hệ thống con khác nhau. Mỗi hệ thống con như vậy bao gồm những yếu tố tương đối đồng loại. Chẳng hạn, hệ thống âm vị bao gồm tất cả các âm vị, hệ thống từ vựng bao gồm tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ, hệ thống hình vị bao gồm tất cả các hình vị v.v… Hệ thống âm vị lại có thể chia ra hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm, hệ thống hình vị có thể chia ra hệ thống hình vị thực và hệ thống hình vị hư, hệ thống từ vựng có thể chia ra hệ thống từ đơn và hệ thống từ ghép v.v…
  3. Các đơn vị ngôn ngữ làm thành những cấp độ khác nhau. Khi nghiên cứu, người ta thường chia các yếu tố của ngôn ngữ vào các cấp độ khác nhau. Cấp độ là một trong những giai đoạn nghiên cứu của ngôn ngữ được quy định bởi những thuộc tính của những đơn vị được phân xuất trọng khi phân tách chuỗi lời nói một cách liên tục từ những đơn vị bậc cao đến những đơn vị bậc thấp. Các đơn vị thuộc cấp độ khác nhau có quan hệ tôn ti, tức là các đơn vị bậc thấp "nằm trong" các đơn vị bậc cao và các đơn vị bậc cao "bao gồm" các đơn vị bậc thấp. Thí dụ: câu bao gồm các từ, từ bao gồm các hình vị, hình vị bao gồm các âm vị. Ngược lại, âm vị nằm trong hình vị, hình vị nằm trong từ, từ nằm trong câu. Vì vậy, âm vị, hình vị, từ và câu là những cấp độ khác nhau.
    Khái niệm cấp độ gắn liền với tổng thể các yếu tố đồng loại, nhưng không phải bất cứ tập hợp các yếu tố đồng loại nào cũng tạo thành một cấp độ. Chẳng hạn, hình vị thực và hình vị hư, từ đơn và từ ghép không tạo thành những cấp độ khác nhau, bởi vì ở đấy không tìm thấy quan hệ "nằm trong" và "bao gồm". Có khi sự khác nhau bên ngoài của những đơn vị thuộc các cấp độ khác nhau giảm tới zero, nhưng chúng vẫn khác nhau về chất, bởi vì chức năng của chúng không đồng nhất. Ví dụ: Một đứa trẻ thấy mẹ về reo lên: - U! Có thể coi đây là một câu, nhưng câu này chỉ gồm một từ, từ này lại chỉ gồm một hình vị, và cuối cùng, hình vị U cũng là một âm vị. Trong ngôn ngữ học, có khi người ta gọi ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp hoặc ngữ âm và ngữ nghĩa là các cấp độ. Thực ra, đây chỉ là những mặt, những lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ mà thôi.
  4. Tính đa trị của tín hiệu ngôn ngữ. Trong các hệ thống tín hiệu khác, mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện có tính chất đơn trị, nghĩa là mỗi cái biểu hiện chỉ tương ứng với một cái được biểu hiện. Ở ngôn ngữ không hoàn toàn như vậy. Trong ngôn ngữ, có khi một cái biểu hiện tương ứng với nhiều cái được biểu hiện khác nhau, chẳng hạn, các từ đa nghĩa và đồng âm, có khi nhiều cái biểu hiện khác nhau chỉ tương ứng với một cái được biểu hiện, chẳng hạn, các từ đồng nghĩa. Mặt khác, vì ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp và phương tiện tư duy mà còn là phương tiện biểu hiện tình cảm, cho nên mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài nội dung khái niệm còn có thể biểu hiện cả các sắc thái tình cảm của con người nữa.
  5. Tính độc lập tương đối của ngôn ngữ. Các hệ thống tín hiệu nhân tạo khác thường được sáng tạo ra theo sự thoả thuận của một số người, do đó hoàn toàn có thể thay đổi theo ý muốn của con người. Ngược lại, ngôn ngữ có tính chất xã hội, có quy luật phát triển nội tại của mình, không lệ thuộc vào ý muốn của cá nhân. Tuy nhiên, bằng những chính sách ngôn ngữ cụ thể, con người vẫn có thể tạo điều kiện cho ngôn ngữ phát triển theo những hướng nhất định. Chính vì vậy, người ta nói ngôn ngữ có tính độc lập tương đối.
  6. Giá trị đồng đại và giá trị lịch đại của ngôn ngữ. Các hệ thống tín hiệu nhân tạo chỉ có giá trị đồng đại, tức là được sáng tạo ra để phục vụ nhu cầu nào đó của con người trong một giai đoạn nhất định. Ngôn ngữ vừa có giá trị đồng đại vừa có giá trị lịch đại. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng là sản phẩm của quá khứ để lại. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người cũng thời mà còn là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người thuộc các thời đại khác nhau, các giai đoạn lịch sử khác nhau.

1. Bản chất tín hiệu của hệ thống ngôn ngữ

1. Bản chất tín hiệu của hệ thống ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, nó khác với những hệ thống vật chất khác không phải là tín hiệu, chẳng hạn, kết cấu của một cái cây, một vật thể nước, đá, kết cấu của một cơ thể sống v.v… Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thể hiện ở những điểm sau:
  1. Các yếu tố của những hệ thống vật chất không phải là tín hiệu có giá trị đối với hệ thống vì có những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng. Hệ thống tín hiệu cũng là hệ thống vật chất nhưng các yếu tố của nó có giá trị đối với hệ thống không phải do những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng mà do những thuộc tính được người ta trao cho để chỉ ra những khái niệm hay tư tưởng nào đó.
  2. Tính hai mặt của tín hiệu. Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện mà thành. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ là hình thức ngữ âm, còn cái được biểu hiện là khái niệm hay đối tượng biểu thị.
  3. Tính võ đoán của tín hiệu. Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là có tính võ đoán, tức là giữa hình thức âm và khái niệm không có mối tương quan bên trong nào. Vì thế, khái niệm "người đàn ông cùng mẹ sinh ra và sinh ra trước mình" trong tiếng Việt dược biểu thị bằng âm [anh], nhưng trong tiếng Nga, lại được biểu thị bằng âm [brat]. Khái niệm ấy được biểu thị bằng [anh] hay [brat] hoàn toàn là do sự quy ước, hay do thói quen của tập thể quy định chứ không thể giải thích lí do.
  4. Giá trị khu biệt của tín hiệu. Trong một hệ thống tín hiệu, cái quan trọng là sự khu biệt. Thuộc tính vật chất của mỗi tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở những đặc trưng có khả năng phân biệt của nó. So sánh một vết mực trên giấy và một chữ cái chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Cả vết mực lẫn chữ cái đều có bản chất vật chất như nhau, đều có thể tác động vào thị giác như nhau. Nhưng muốn nêu đặc trưng của vết mực phải dùng tất cả các thuộc tính vật chất của nó: độ lớn, hình thức, màu sắc, độc đậm nhạt v.v…, tất cả đều quan trọng như nhau. Trong khi đó, cái quan trọng đối với một chữ cái chỉ là cái làm cho nó khác với chữ cái khác: Chữ A có thể lớn hơn hay nhỏ hơn, đậm nét hơn hay thanh nét hơn, có thể có màu sắc khác nhau, nhưng đó vẫn chỉ là chữ A mà thôi. Sở dĩ như vậy là vì chữ A nằm trong hệ thống tín hiệu, còn vết mực không phải là tín hiệu.
Những đặc điểm của ngôn ngữ với tư cách là hệ thống tín hiệu vừa trình bày ở trên có thể tìm thấy ở cả những hệ thống tín hiệu khác như hệ thống tín hiệu đèn giao thông, trống hoặc kẻng báo hiệu, biển chỉ đường, v.v… Trong hệ thống đèn giao thông có ba yếu tố: màu đỏ chỉ sự cấm đi, màu vàng – chuẩn bị, màu xanh – có thể đi. Thực ra, màu đó, màu vàng, màu xanh tự nó không có nghĩa gì cả. Sở dĩ mỗi màu mang một nội dung như vậy hoàn toàn là do sự quy ước. Nói cách khác, mối quan hệ giữa cái biểu hiện (màu sắc) và cái được biểu hiện ở đây cũng có tính võ đoán. Và tất nhiên, chỉ đặc trọng hệ thống đèn giao thông các màu mới có những ý nghĩa như thế. Người ta có thể dùng các sắc độ khác nhau của màu đỏ để chỉ "sự cấm đi", các sắc độ khác nhau của màu vàng để chỉ "sự chuẩn bị", các sắc độ khác nhau của màu xanh để chỉ "có thể đi", miễn sao ba màu đó phải giữ được sự phân biệt lẫn nhau. Như vậy, ở đây nét khu biệt của các thuộc tính vật lí của các màu cũng là quan trọng.